- Trang chủ
- >
- Trống đồng Cổ Loa
- >
- Thông tin mở rộng
Trống đồng Cổ Loa
Cổ Loa từng là kinh đô của nhà nước Âu Lạc thời kỳ An Dương Vương (thế kỷ III TCN) và
của nước Đại Việt thời Ngô Quyền (thế kỷ X). Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học
đánh giá là “tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại
độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ”. Cổ Loa là dấu tích
vật chất còn lại duy nhất khẳng định vùng đất Hà Nội lần đầu tiên được lựa chọn là
kinh thành của đất nước ta trong lịch sử. Dấu tích vật chất tiêu biểu ở Cổ Loa: đền
An Dương Vương, am Mỵ Châu, giếng ngọc,...Nằm sâu trong lòng đất Cổ Loa là các di
chỉ khảo cổ học đã được phát hiện nhiều di vật: Cầu Vực với hàng vạn mũi tên đồng
nặng tới 93kg, Mả Tre phát hiện gần 200 đồ đồng các loại gồm: trống đồng, các loại
công cụ, vũ khí, gần 100 lưỡi cày, khu lò luyện đúc đồng ở sát cạnh vòng thành còn
có các khu vực như xóm Nhồi, xóm Thượng,..Xóm Hương đã nhiều lần phát hiện được mũi
tên, giáo, dao găm, rìu xéo, lưỡi cày, lưỡi câu, mảnh thạp, mảnh trống,...Với khối
lượng hiện vật phong phú và đa dạng, phản ánh quá trình phát triển liên tục từ sơ kỳ
thời đại đồng thau đến thời đại đồ sắt qua bốn nền văn hóa Phùng Nguyên - Đồng Đậu -
Gò Mun - Đông Sơn (đỉnh cao là văn hóa Đông Sơn) hình thành nền văn minh sông Hồng
thời kỳ tiền sử của dân tộc Việt Nam.
Có thể thấy Hà Nội là một trong những vùng đất phát hiện được nhiều di tích và di
vật văn hóa Đông Sơn. Tiêu biểu trên đất Cổ Loa, hầu hết các huyện ngoại thành đều
có phát hiện nhiều di tích quan trọng như: Đình Tràng, Đường Mây, Trung Màu, Chùa
Thông. Qua các hiện vật thu lượm được có thể thấy nền kinh tế có bước phát triển
quan trọng. Nông nghiệp dùng lưỡi cày đồng và sức kéo động vật đã thúc đẩy toàn bộ
nền kinh tế phát triển. Nghề luyện kim đạt nhiều tiến bộ về kỹ thuật cho phép đúc
được những hiện vật lớn nặng hàng trăm cân, trang trí tinh tế, phức tạp như trống
đồng và chính đỉnh cao của kỹ thuật luyện kim đồng đã sáng tạo ra kỹ thuật luyện kim
sắt.
Bộ sưu tập đồ đồng Đông Sơn ở Cổ Loa hiện lưu giữ ở Bảo tàng Hà Nội, trong đó trống
Cổ Loa và bộ sưu tập lưỡi cày đồng trong trống được công nhận là bảo vật quốc gia.
Đây là nhóm hiện vật thuộc văn hóa Đông Sơn rất có giá trị.
Trống đồng Cổ Loa
Trống đồng Cổ Loa được chôn ngửa ở một thửa ruộng thuộc khu vực Mả Tre, nằm giữa
thành Trung và thành Nội thuộc thành Cổ Loa. Nhóm hiện vật được tìm thấy rất phong
phú gồm: trống đồng, dao găm, mũi tên, rìu đồng, cuốc đồng, thố, lưỡi cày.
Trống nằm trong tầng sinh thổ sét vàng pha cát, sâu khoảng 25cm đến 30cm so với mặt
ruộng. Trống có kích thước lớn: đường kính mặt 73,8cm, chiều cao 53cm, thuộc loại
những trống Đông Sơn đẹp nhất, tương đương với trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ.
Trống thuộc loại I theo cách phân loại của Hêgơ, gồm 3 phần: tang phình, thân hình
trụ, chân choãi. Mặt trống không chờm khỏi tang trống. Trống có hai đôi quai kép đối
xứng nhau qua trục tâm trống.
* Hoa văn trang trí
- Mặt trống: Chính giữa là ngôi sao nổi 14 cánh, xen giữa các cánh là họa tiết lông
công. Lấy ngôi sao làm trung tâm, từ trong ra ngoài có 15 vành hoa văn. Các vành
1,5,9 và 14 là những chấm dải. Các vành 2,4,7,11 và 12 là hoa vòng tròn tiếp tuyến
chấm giữa. Vành 10 và 13 là những vạch ngắn song song. Vành 3 là những hình chữ S.
Vành 15 để trơn không trang trí. Vành 6 và 8 là vành trang trí chủ đạo có hình
người, vật và động vật diễu hành xung quanh ngôi sao theo hướng ngược chiều kim đồng
hồ. Trang trí ở vành 6 chia thành hai nửa giống nhau tương tự như các trống Ngọc Lũ
và Hoàng Hạ, mỗi nửa gồm 1 nhóm 6 người hóa trang, một dàn 4 trống và 4 người đánh
trống, một mái nhà cong hình thuyền có chim đậu trên nóc, trong nhà có một cặp nam
nữ ngồi đối diện nhau. Một đầu nhà có hình một chiếc trống đồng đặt nghiêng, đầu kia
có một người ngồi co gối đánh trống. Trống đồng treo trên giá, cạnh đó một cặp nam
nữ đứng giã gạo chày tay, một nhà cầu mùa mái tròn có người đứng bên trong, bên
ngoài là hình một người đứng giơ tay, mặt hướng về phía nhà cầu mùa. Hai nhà mái
cong trên nóc có một chim, trong nhà có hai người tóc xõa quay mặt vào nhau, hai tay
nắm lấy nhau ngồi trên sàn, còn người thứ ba ngồi trước trống ở góc bên trái dưới
sàn. Hình này ở trống Cổ Loa rất giống trống Hoàng Hạ. Hai nửa mặt trống có hai đôi
trai gái giã cối tương tự trống Ngọc Lũ. Tiếp đến là một người mặc váy, tóc xõa đứng
trước nhà mái hình vòng cung. Hai nhà mái hình vòng cung giống nhau, trong mỗi nhà
có một người đứng tay cầm một vật không rõ hình dạng, hai bên là hai dải vòng tròn
chấm giữa. Vành 8 gồm 16 con chim mỏ dài, đuôi dày, có mào, có chân, bay ngược chiều
kim đồng hồ tương tự như hình chim bay trên mặt các trống Ngọc Lũ và Hoàng Hạ.
- Tang trống cũng trang trí hoa văn hình học như mặt trống gốm: vạch ngắn song song,
vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến, băng chấm nổi. Vành hoa văn chủ đạo trên tang
trống là hình 6 chiếc thuyền, một mái chèo, bơi theo hướng ngược chiều kim đồng hồ.
Trên mỗi thuyền có 3 người hóa trang đứng ở mũi thuyền, giữa thuyền và đuôi thuyền
cũng có những người này đều cầm giáo ở tay. Giữa đuôi thuyền trước và mũi thuyền sau
có hình một con chim mỏ dài, chân cao, mỏ đang ngậm mồi. Riêng nơi giáp hai mang
khuôn thì giữa hai thuyền là hình hai con chim. Tất cả có 8 con chim đều quay theo
hướng ngược chiều kim đồng hồ.
- Thân trống: Gần mặt trống có 6 băng văn hình học. Các băng 1 và 6 là văn chấm dải,
các băng 2 và 5 là văn răng lược. Băng 3 và 4 là vòng tròn tiếp tuyến. Phía dưới là
băng trang trí chủ đạo có hình sáu chiếc thuyền, xen kẽ các hình thuyền có một chim
đứng mỏ dài đuôi dài, chân cao. Trong số 6 thuyền, chỉ còn một thuyền nhận được
những người theo thứ tự như sau: 1 người đứng cầm lái, 3 người đứng cầm giáo, mũi
giáo chúc xuống, 1 người cầm trống và người cuối cùng ngồi ở mũi thuyền cầm rìu
giống như người cầm rìu ở mũi thuyền trống Miếu Môn. Vành 8 là văn vòng tròn tiếp
tuyến.
- Lưng trống có những băng hoa văn hình học bố trí theo chiều thẳng đứng chia thành
6 ô hình chữ nhật. Bố cục của băng hoa văn này như sau: cột 1 và 6 là những chấm
dải, cột 2 và 5 là vạch chéo song song, cột 3 và 4 là vòng tròn tiếp tuyến. Trong
mỗi ô hình chữ nhật có hình một người mặc váy, đội mũ lông chim cao, tay sau xòe ra
múa, tay trước cầm mũi giáo chúc xuống, cán giáo hình bầu dục.
- Chân trống để trơn. Mặt trong của trống, cách mép chân trống 6cm có một hàng chữ
Hán khắc chìm. Dòng chữ Hán khắc trên rìa phía trong của chân trống: "Trọng Bách Tập
Cân. Đệ Nhị Tây Vu. Dung Bát Thập Nhị" (Dịch: Trọng lượng 140 cân. Trống thứ hai của
Tây Vu. Thể tích 82 đấu).
Giữa tang và thân trống có 4 đôi quai kép trang trí văn thừng bện. Trống có 9 hàng
con kê ở mặt và thân trống.
* Kỹ thuật đúc trống
Trên mặt trống có 20 dấu vết hòn kê, tang trống có 37 vết, ở lưng trống có 32 và ở
phần thân là 10. Như vậy, trống đặt ngửa khi rót đồng, vì trọng lực của khuôn trong
tỳ lên khuôn ngoài, dồn vào phần tang và mặt. Trống có âm lớn và thanh, cho thấy
việc bố trí hòn kê khá hợp lý.
Trên tang trống có 2 lỗ tròn, đường kính mỗi lỗ 0,5cm, nằm gần quai trống, đó là lỗ
thông hơi. Có lẽ lỗ thông hơi nhiều hơn thế nhưng dấu vết của nó được hàn kỹ nên
không phát hiện hết. Quan sát các hoa văn trên trống thấy rõ nét chứng tỏ áp lực của
đồng khi rót vào đã đẩy được hết không khí trong khuôn thoát nhanh và thoát hết ra
khỏi các lỗ thông hơi.
Hai đường chỉ đức chạy dọc thân rất nhỏ và đều chứng tỏ khuôn được mài rất phẳng ở
mặt ghép khuôn. Như vậy, trống được đúc bằng 3 mang: măng mặt và hai mang thân rất
khít.
Từ góc độ phân tích thành phần hợp kim, các dấu vết đúc đồng còn để lại trên trống
Cổ Loa cho đến phương pháp nghiên cứu cách đúc đồng truyền thống của một số địa
phương có thể dựng lại quy trình đúc trống gồm các bước: khâu làm khuôn, khâu đóng
con kê, khâu pha chế hợp kim, khâu nấu chảy đồng nguyên liệu, khâu rỡ khuôn và làm
nguội.
Trống đồng được sản xuất không chỉ là nhạc cụ dùng trong các hội hè, nghi lễ trang nghiêm mà còn là biểu tượng của nền văn minh phát triển rực rỡ nhất trong buổi đầu dựng nước của dân tộc- nền văn minh Đông Sơn.